This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Coi chừng trẻ bị chốc lở trong mùa hè

Chốc lở là một bệnh nhiễm khuẩn da, rất dễ lây, hay gặp ở trẻ em. Chốc lở thường xuất hiện trên mặt, nhất là quanh mũi và miệng của trẻ. Bệnh xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập cơ thể qua các vết thương hay côn trùng đốt hoặc xảy ra trên da bình thường. Mùa hè ra nhiều mồ hôi nên nguy cơ chốc lở càng tăng.

Da bị trầy xước dễ mắc bệnh

Có nhiều loại vi khuẩn ký sinh trên da, trong đó 2 loại vi khuẩn là tụ cầu và liên cầu hay gặp gây bệnh. Chúng xâm nhập cơ thể qua một vết thương, vết cắn của côn trùng gây nhiễm khuẩn. Trẻ em thường bị bệnh chốc lở do nhiễm khuẩn qua vết rách da, do cạo, cắt hoặc côn trùng đốt. Ở người lớn, chốc lở cũng thường xảy ra sau tổn thương da hoặc viêm da. Nếu nhiễm tụ cầu khuẩn, chúng có khả năng sản xuất một loại độc tố làm cho chốc lở lan rộng.

Luôn luôn giữ cho da sạch sẽ bằng cách tắm rửa hàng ngày với nước sạch

Tuy mọi người đều có thể bị chốc lở, nhưng trẻ em từ 2 - 6 tuổi và trẻ sơ sinh thường bị chốc lở nhiều nhất. Những người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân, hoặc chăm sóc bệnh nhân, tiếp xúc với các đồ dùng của bệnh nhân như giường, chiếu, chăn màn, quần áo rất dễ bị nhiễm bệnh. Ở những nơi tập trung đông người như chợ, lớp học, siêu thị, nhà trẻ... dễ lây lan bệnh. Thời tiết nóng ẩm mùa hè, những bệnh nhân bị viêm da mạn tính, viêm da dị ứng, bệnh nhân đái tháo đường... là đối tượng dễ mắc bệnh.

Chốc lở có nhiều thể bệnh

Trong bối cảnh mùa hè nắng nóng, một bệnh nhân chốc lở thường có các triệu chứng sau: có vết loét đỏ trên da, nhanh chóng vỡ, sau đó hình thành một lớp vỏ màu vàng nâu. Bệnh nhân rất ngứa. Vết chốc thường không đau, có dịch tiết lỏng chứa đầy mụn nước. Những ca bệnh nặng, bệnh nhân bị đau đớn, chất lỏng hoặc vết loét đầy mủ tiến triển dần thành vết loét sâu. Cần phân biệt mấy dạng chốc lở sau đây:

Chốc lở truyền nhiễm là thể bệnh hay gặp nhất, có các triệu chứng: đầu tiên là một số nốt mụn đỏ trên mặt, thường quanh mũi và miệng. Các nốt mụn nhanh chóng vỡ ra, chảy dịch hoặc mủ và đóng vảy màu nâu. Cuối cùng vảy sẽ bong ra, để lại một vết đỏ nhưng không gây sẹo. Các mụn có thể ngứa nhưng không đau. Trẻ em bị bệnh không sốt nhưng thường bị sưng hạch ở quanh vùng có vết chốc. Vết chốc lở rất dễ lây lan sang các vùng da lành khác nếu bị dây dịch của vết chốc.

Chốc lở dạng phỏng, chủ yếu xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi, triệu chứng là: những nốt phỏng nước chứa đầy dịch và không đau, thường thấy ở thân mình, cánh tay và cẳng chân. Da xung quanh nốt phỏng đỏ và ngứa nhưng không loét. Các nốt phỏng sẽ vỡ và đóng vảy màu vàng, thường lâu liền hơn các dạng chốc lở khác.

Thể mụn mủ, là thể nặng nhất, trong đó nhiễm khuẩn ăn sâu vào lớp bì, với các triệu chứng: các nốt mụn đau chứa đầy dịch hoặc mủ biến thành vết loét sâu, thường ở cẳng chân và bàn chân. Trên vết mụn có vảy dày, cứng màu vàng xám. Sưng hạch ở xung quanh vết chốc.

Biến chứng của chốc lở

Viêm cầu thận có thể phát triển sau khi bị chốc lở do liên cầu khuẩn. Viêm cầu thận xảy ra sau khi phát chốc lở khoảng 2 tuần. Triệu chứng gồm: phù mặt, nhất là phù mi mắt, đi tiểu ít, có máu trong nước tiểu, tăng huyết áp, cứng khớp và đau khớp. Bệnh thường gặp ở trẻ em từ 6 - 10 tuổi. Ở người lớn, các triệu chứng thường nặng hơn.

Đeo găng tay chăm sóc bệnh nhân tránh lây bệnh.

Biến chứng viêm mô tế bào: bệnh viêm đến các mô bên dưới da và lan đến hạch bạch huyết và vào máu. Nếu không được điều trị, viêm mô tế bào có thể nhanh chóng đe dọa tính mạng người bệnh.

Bệnh còn gây biến chứng sẹo, nám da.

Lời khuyên của bác sĩ

Bệnh chốc lở nếu nặng và không được điều trị kịp thời có thể xảy ra biến chứng nặng gây tử vong. Vì vậy, việc phòng bệnh rất quan trọng. Các biện pháp phòng bệnh hiệu quả gồm: luôn luôn giữ cho da sạch sẽ bằng cách tắm rửa hàng ngày với nước sạch. Điều trị tích cực vết thương, vết xước, vết côn trùng cắn trên da bằng cách rửa sạch vết thương, dùng thuốc sát khuẩn, mỡ kháng sinh để ngăn ngừa nhiễm khuẩn. Bệnh nhân chốc lở cần được cách ly ở phòng riêng, dùng riêng các đồ dùng sinh hoạt như chăn màn, khăn tắm, chậu rửa mặt... để tránh lây lan cho người khác. Phải giặt quần áo, đồ vải và khăn của bệnh nhân riêng và khử khuẩn bằng cách luộc sôi từ 5 - 10 phút. Người chăm sóc bệnh nhân cần đeo găng tay khi tiếp xúc, thay băng... Trẻ bị bệnh cần được cắt móng tay ngắn để tránh trầy xước da khi trẻ gãi. Thường xuyên rửa tay bằng nước sạch với xà phòng sát khuẩn.

BS. Phạm Quốc Tuấn



Nhỏ mắt cho trẻ thế nào cho đúng?

Con tôi 5 tuổi, cháu mới bị lây đau mắt đỏ từ bạn cùng lớp mẫu giáo. Tôi đã đưa cháu đi khám và nhỏ thuốc theo chỉ định của bác sĩ nhưng mỗi lần nhỏ thuốc cho cháu rất khó khăn, cứ nhỏ thuốc vào là cháu lại khóc và thuốc trôi ngay ra ngoài, mắt vẫn không đỡ. Xin bác sĩ tư vấn giúp.

Đặng Vân Khánh (Quảng Trị)

Giao mùa là thời điểm rất dễ khiến trẻ em bị viêm kết mạc. Nếu điều trị không đúng có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm viêm giác mạc, loét giác mạc.

Với trẻ nhỏ cần động viên, khuyến khích trẻ phối hợp trong nhỏ thuốc để trẻ bớt sợ. Khi nhỏ mắt, cần giữ yên trẻ trong tư thế ngả đầu trẻ ra đằng sau, hoặc tốt nhất là cho trẻ nằm ngửa và ngước mắt lên. Các bước nhỏ mắt theo trình tự sau: Rửa tay bằng xà phòng và nước sạch trước và sau khi nhỏ mắt cho trẻ; Lau sạch mắt trẻ nhẹ nhàng bằng bông tẩm nước ấm; Kéo mi dưới của mắt xuống. Nhỏ thuốc vào giữa kết mạc, tại khe giữa mi dưới và mắt, lưu ý không để lọ thuốc chạm vào mắt trẻ; Để trẻ chớp mắt cho thuốc hòa vào các phần trong mắt. Sau đó dùng bông sạch thấm phần thuốc chảy ra ngoài theo hướng từ trong mắt ra ngoài khóe mắt. Nếu nhỏ cả hai mắt thì phải sử dụng miếng bông khác cho mắt còn lại. Thu hút sự chú ý của trẻ để trẻ không dụi mắt khi thuốc đang ngấm.

Thực hiện nhỏ mắt với số giọt thuốc và số lần nhỏ mắt theo chỉ định của bác sĩ cho đến khi mắt hết đỏ, không còn gỉ mắt, không dính mi và lành hoàn toàn.

Bác sĩ Kim Thanh

Những yếu tố ảnh hưởng tới sức khỏe xương

Thiếu canxi

nhung-yeu-to-anh-huong-toi-suc-khoe-xuong

Chúng ta đều biết rằng protein là thực phẩm tốt cho cơ bắp. Tương tự, xương cần canxi để tăng mật độ xương. Khi bạn không nhận đủ canxi, xương sẽ “bị đói” theo nghĩa đen. Vì vậy, chế độ ăn cần cung cấp đủ hàm lượng canxi.

Giới tính và tuổi

Một số nghiên cứu chỉ ra rằng phụ nữ dễ bị loãng xương hơn nam giới. Theo độ tuổi, bạn có xu hướng bị giảm mật độ xương. Đó là một sự thay đổi tự nhiên không tránh khỏi. Vì vậy, khi bạn già đi, bạn cần tăng cường hấp thu canxi.

Ít vận động

Khi ít vận động thể chất, dần dần bạn có thể bị mất mật độ xương. Các nghiên cứu chỉ ra rằng hoạt động thể chất có thể ngăn ngừa loãng xương

Hút thuốc và uống rượu

Nhiều nghiên cứu cho thấy những thói quen như hút thuốc và uống rượu có thể ảnh hưởng tiêu cực lên mật độ xương. Vì rượu cản trở sự hấp thu canxi, từ đó có thể ảnh hưởng tới mật độ xương.

Di truyền

Nếu bị ảnh hưởng di truyền bất cứ rối loạn về xương nào thì bạn cần chú ý để làm giảm nguy cơ

Thuốc

Một số thuốc bao gồm corticoid có thể làm tăng tối đa nguy cơ bị các vấn đề liên quan đến xương như loãng xương.

Tai nạn

Trong một số trường hợp, thậm chí các tai nạn có thể gây mất xương. Tất nhiên, chỉ bác sĩ có thể biết phải làm gì trong trường hợp này.

BS Cẩm Tú

(theo Boldsky)

Giúp bạn chọn vắc

Tiếp theo số 115

Dưới đây là danh sách và thời điểm tiêm các loại vắc-xin:

Tháng thứ nhất:

1. BCG: Vắc-xin phòng bệnh lao:

Dùng cho các bé chưa được tiêm phòng lao tốt nhất trong tháng đầu tiên của cuộc đời, càng sớm càng tốt sau khi sinh với liều tiêm 0,1ml trong da.

Vắc-xin không sử dụng cho người quá mẫn với vắc-xin, người có suy giảm miễn dịch vì bất cứ nguyên nhân nào. Lưu ý: không tiêm nhắc nếu không thấy sẹo lao do lo ngại các phản ứng bất lợi sau tiêm ở những lứa tuổi lớn hơn.

Tháng thứ 2-3-4:

2. Vắc-xin phối hợp nhiều thành phần bạch hầu, uốn ván, ho gà, viêm gan b và viêm phổi, viêm màng não do vi khuẩn Hib hiện gồm 3 loại trong đó Quinvaxem là vắc-xin TCMR và 2 vắc-xin dịch vụ là Pentaxim (5 trong 1) và Infarix Hexa (6 trong 1). Cả ba vắc-xin đều tiêm cho trẻ 3 mũi cơ bản trong thời gian 2-3-4 tháng tuổi, liều nhắc lại tiêm lúc 16-18 tháng nhưng Quinvaxem được nhắc với DPT ở 18 tháng còn hai vắc-xin còn lại được sử dụng luôn để tiêm nhắc.

Cần tiêm vắc-xin cho trẻ đúng định kỳ. Ảnh: TM

Về cơ bản, các vắc-xin đều chống chỉ định với trẻ nếu tiền sử có phản ứng mạnh đối với liều tiêm trước hoặc có phản ứng mạnh đối với vắc-xin bạch hầu, ho gà, uốn ván (DPT) hoặc vắc-xin viêm gan B. Ngoài ba vắc-xin nêu trên, vắc-xin có thành phần ho gà, bạch hầu, uốn ván còn có các sản phẩm như:

DPT: Uốn ván, bạch hầu và ho gà hiện sử dụng trong TCMR và tiêm ở 18 tháng bổ sung cho 3 liều cơ bản Quivaxem.

Tetraxim: Bạch hầu, uốn ván, ho gà và bại liệt, sử dụng trong TCDV cho các trường hợp không tiêm được Pentaxim và Infarix hexa đúng lịch. Vắc-xin này gồm 4 thành phần và có thể tiêm đến 7 tuổi.

Adacel: Uốn ván, bạch hầu và ho gà sử dụng cho người lớn với thành phần tương tự DPT. Vắc-xin này được sử dụng chủ yếu với mục đích gây miễn dịch cho các bà mẹ có thai để miễn dịch đó bảo vệ cho trẻ mới sinh ra.

3. Vắc-xin phòng phế cầu xâm nhập (Sylflorix): Phòng ngừa các bệnh lý phế cầu xâm nhập (bao gồm hội chứng nhiễm trùng, viêm màng não, viêm phổi vi khuẩn và nhiễm khuẩn huyết) và viêm tai giữa cấp tính. Tạo miễn dịch chủ động cho trẻ em và trẻ nhỏ từ 6 tuần tuổi đến 5 tuổi ngừa các bệnh gây ra bởi pPhế cầu. Synflorix™ không được tiêm cho các đối tượng quá mẫn với bất kỳ thành phần nào trong vắc-xin. Liều tiêm bắp 0,5ml.

Đối với trẻ từ 6 tuần tuổi đến 6 tháng tuổi: sử dụng liệu trình 3 liều cơ bản: 2-3-4 tháng tuổi. Liều đầu tiên có thể được tiêm sớm nhất vào lúc 6 tuần tuổi. Liệu trình cụ thể cần có sự tư vấn của bác sĩ tiêm chủng.

4. Vắc-xin Meningococcal BC: được chỉ định nhằm tạo miễn dịch chủ động phòng bệnh viêm màng não do não mô cầu nhóm huyết thanh thanh B và C. Vắc-xin được tiêm cho trẻ từ tháng tuổi thứ ba và các đối tượng sống trong vùng dịch hay phải di đến vùng dịch.

Cũng nên tiêm vắc-xin cho những người sống trong một cộng đồng như các trung tâm chăm sóc trẻ em trường nội chú, doanh trại quân đội, nhà tù, các vùng có mật độ dân cư cao hoặc cộng đồng có báo cáo về các trường hợp nhiễm não mô cầu nhóm huyết thanh B và C.

Lịch tiêm cơ bản gồm hai liều 0,5ml, khoảng cách giữa các lần tiêm là 6 - 8 tuần. Liều tiêm thứ hai là bắt buộc để đạt được mức bảo vệ. Lịch tiêm đuợc áp dụng với trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên và người lớn đến 45 tuổi.Theo kinh nghiệm sử dụng vắc-xin, không cần thiết phải tiêm nhắc lại.

Tháng thứ 6

5. Vắc-xin Cúm (Influvac, Inflexal V, Fluarix)

Dự phòng bệnh cúm, đặc biệt là ở những người có nguy cơ bị các biến chứng kèm theo cao.

Chống chỉ định với các trường hợp quá mẫn với các hoạt chất, với bất kỳ tá dược nào, trứng gà, protein gà, formaldehyde, cetyltrimethylammonium bromide, polysorbate 80 hoặc gentamicin.

Với trẻ từ 7-11 tháng tuổi: Liệu trình tiêm chủng vắc-xin Sylflorix (đã nêu ở trên) bao gồm 2 liều tiêm 0,5ml với khoảng cách giữa các mũi tiêm ít nhất là 1 tháng. Liều thứ ba được chỉ định vào năm tuổi thứ hai với khoảng cách ít nhất là 2 tháng. Với trẻ từ 12-23 tháng tuổi: Liệu trình tiêm chủng bao gồm 2 liều tiêm 0,5ml với khoảng cách giữa các mũi tiêm ít nhất là 2 tháng. Chưa cần thiết phải tiêm mũi nhắc lại sau liệu trình tiêm chủng này.

Tháng thứ 9

6. Vắc-xin phòng sởi, Rubella

Hiện TCMR sử dụng vắc-xin sởi đơn cho trẻ từ 9 tháng tuổi trở lên và người chưa có kháng thể sởi. Vắc-xin phối hợp sởi - Rubella được sử dụng cho trẻ trên 1 tuổi, trong TCMR vắc-xin phối hợp này được tiêm ở 18 tháng. Vắc-xin phối hợp sởi - quai bị - Rubella hiện mới chỉ dùng trong tiêm chủng dịch vụ và tiêm tại 12 tháng, đồng thời nhắc lại nhằm đề phòng trường hợp không đáp ứng với mũi tiêm trước.

Do đây là các vắc-xin sống, cả ba loại vắc-xin kể trên đều chống chỉ định với các trường hợp bị nhiễm khuẩn cấp tính, mắc bệnh lao tiến triển chưa được điều trị hay suy giảm miễn dịch (trừ trẻ em bị HIV).

vacxinTư vấn tiêm vắc-xin phòng bệnh cho trẻ. Ảnh: Trần Minh

Tháng thứ 12

Vắc-xin sởi - Rubella và sởi - quai bị - Rubella (MMR, Priorix, Trimovac): ngoài đối tượng đủ 12 tháng tuổi, thường được chỉ định cho phụ nữ chuẩn bị mang thai nhằm tạo kháng thể tốt hơn truyền cho con.

Các chống chỉ định cho những vắc-xin này bao gồm: phụ nữ có thai, trường hợp bị nhiễm khuẩn cấp tính, mắc bệnh lao tiến triển chưa được điều trị hay suy giảm miễn dịch (trừ trẻ em bị HIV). Điều trị các thuốc ACTH, corticosteroid, xạ trị, các thuốc thuộc nhóm alkyl hoặc ức chế chuyển hóa, suy giảm miễn dịch nặng. Bệnh bạch cầu, các u bạch huyết lympho hoặc các bệnh ác tính khác ảnh hưởng đến chức năng tủy xương hoặc hạch bạch huyết.

7. Vắc-xin phòng thủy đậu: được chỉ định để tiêm phòng bệnh thủy đậu cho đối tượng từ 12 tháng tuổi trở lên và được chỉ định để dự phòng cho những người nhạy cảm bị phơi nhiễm bệnh thủy đậu trong vòng 3 ngày và có thể đến 5 ngày sau khi tiếp xúc.

Chống chỉ định với các đối tượng có tiền sử quá mẫn với bất kỳ thành phần nào của vắc-xin, kể cả gelatin.

Do Việt Nam nằm trong khu vực lưu hành dịch, hiện chỉ khuyến cáo sử dụng liều đơn vắc-xin thủy đậu mà không cần liều nhắc lại.

Tháng thứ 18

Mũi nhắc lại của sởi - Rubella, DPT được thực hiện trong khoảng thời gian này. Cần hoàn thành trước 24 tháng tuổi để đảm bảo khả năng bảo vệ cho trẻ.

Tháng thứ 24

8. Vắc-xin phòng não mô cầu (Menningo AC)

Não mô cầu týp A và týp C dùng để phòng ngừa các bệnh do Neisseria meningitidis (não mô cầu) týp A và týp C gây ra ở người lớn và trẻ em từ 2 tuổi trở lên.

Không sử dụng với bệnh nhân bị dị ứng với bất kỳ một thành phần nào của vắc-xin, trước đây đã từng bị phản ứng nghiêm trọng trong khi tiêm vắc-xin này. Bị sốt cao hay bị nhiễm khuẩn cấp tính, nên hoãn việc tiêm ngừa lại. Không được tiêm bắp cho người bị rối loạn chảy máu như hemophili hoặc giảm tiểu cầu vì họ có thể bị chảy máu hay tụ máu tại chỗ tiêm.

Liều tiêm bắp hoặc tiêm dưới da với liều 0,5ml. Người lớn và trẻ em từ 2 tuổi trở lên: một liều (0,5ml) vắc-xin đã hoàn nguyên.

9. Vắc-xin phế cầu: Pneumo 23 phòng ngừa viêm phổi do phế cầu khuẩn (Streptococcus pneumoniae) và các nhiễm khuẩn nặng do phế cầu khuẩn. Pneumo 23 là một vắc-xin được chỉ định để phòng ngừa viêm phổi do phế cầu khuẩn (Streptococcus pneumoniae) và các nhiễm khuẩn nặng do phế cầu khuẩn (ví dụ như nhiễm khuẩn huyết hay viêm màng não) do các týp huyết thanh của phế cầu khuẩn có trong thành phần của vắc-xin.

Chống chỉ định với các bệnh nhân bị dị ứng với bất cứ thành phần nào của Pneumo 23 hay trước đây đã từng bị phản ứng dị ứng sau khi tiêm Pneumo 23 hay vắc-xin có chứa thành phần tương tự, khi bị nhiễm khuẩn đang sốt cao.

Tiêm bắp với liều 0,5ml một liều duy nhất.

Các khoảng thời gian khác:

- Vắc-xin cúm cần nhắc lại hàng năm.

- Các vắc-xin khác cần nhắc lại tùy theo nhà sản xuất.

Trên đây là các vắc-xin phòng bệnh lây qua đường hô hấp hiện đang được triển khai tại Việt Nam. Việc lựa chọn vắc-xin nào cho con của bạn rất cần có sự tư vấn của bác sĩ chuyên ngành tiêm chủng và tuân thủ theo lịch tiêm sẽ đảm bảo cho con bạn được bảo vệ đúng lúc nhất.

TS.BS. Phạm Quang Thái

Xác định hen phế quản ở trẻ em thế nào?

Tiếp theo số 124

Những trẻ nào bị khò khè được chẩn đoán là hen?

Cần phải nghĩ đến hen nếu trẻ có bất kỳ một trong các dấu hiệu và triệu chứng sau:

Khò khè rõ nghe được bằng tai hoặc bằng ống nghe (tuy nhiên cũng cần lưu ý nếu nghe phổi bình thường cũng chưa thể loại trừ được hen);

Tiền sử có một trong các dấu hiệu sau: khò khè tái phát nhiều lần; ho, đặc biệt ho nhiều về đêm; khó thở tái phát nhiều lần; nặng ngực tái đi tái lại nhiều lần.

Các triệu chứng trên thường xảy ra và nặng hơn về đêm và làm trẻ thức giấc hoặc khi: tiếp xúc với lông súc vật, tiếp xúc hoá chất, thay đổi thời tiết, tiếp xúc với bụi nhà, uống thuốc (aspirin, thuốc chẹn beta), gắng sức, chạy nhảy đùa nghịch nhiều, tiếp xúc với dị nguyên hô hấp như phấn hoa, nhiễm virut đường hô hấp, hít phải khói các loại như khói thuốc lá, bếp than, củi, dầu... Rối loạn cảm xúc mạnh như quá xúc động, quá buồn, quá vui...

Nếu trẻ có các biểu hiện dị ứng như chàm hoặc trong gia đình có người bị hen hoặc có các cơ địa dị ứng khác thì khả năng trẻ bị hen nhiều hơn.

Tuy nhiên, không có một xét nghiệm nào có ý nghĩa quyết định trong chẩn đoán hen ở trẻ em, do đó, người thầy thuốc lâm sàng cần thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng, hỏi tiền sử và tập hợp các dữ liệu lâm sàng - xét nghiệm, kể cả việc điều trị thử nếu thấy cần thiết và theo dõi diễn biến của bệnh mới có thể chẩn đoán đúng bệnh trong những trường hợp khó.

Khám phát hiện hen phế quản cho trẻ. Ảnh: TM

Chẩn đoán phân biệt với bệnh nào?

Cần phải chẩn đoán phân biệt với một số nguyên nhân hiếm gặp cũng có thể gây ra khò khè tái phát ở trẻ nhỏ bao gồm: bệnh xơ nang (cystic fibrosis); hội chứng hít phải sữa tái phát; thiếu hụt miễn dịch tiên phát; tim bẩm sinh; các dị tật bẩm sinh, đặc biệt là dị tật ở các mạch máu lớn đè ép gây hẹp đường hô hấp đoạn trong lồng ngực; dị vật đường thở ở phế quản. Do đó, cần chụp Xquang lồng ngực và các xét nghiệm thăm dò khác để loại trừ các nguyên nhân này.

Một số lưu ý đặc biệt

Đối với trẻ còn bú, các chẩn đoán phân biệt khác cần đặt ra là: rối loạn miễn dịch; trào ngược dạ dày - thực quản; dị vật đường thở; mềm sụn khí phế quản; hẹp phế quản; tim bẩm sinh; bệnh xơ nang (cystic fibrosis); lao sơ nhiễm, hạch lao chèn ép vào phế quản.

Đối với trẻ nhỏ trước tuổi đi học cần lưu ý chẩn đoán phân biệt với các bệnh sau: các đợt nhiễm virut đường hô hấp dưới rất thường gặp ở trẻ nhỏ; dị vật đường thở; luồng trào ngược dạ dày - thực quản; bệnh xơ nang (cystic fibrosis); Rối loạn miễn dịch; lao sơ nhiễm...

Đối với trẻ ở tuổi học đường cần phải chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác có thể gây ho dai dẳng và khò khè như: viêm xoang; rối loạn miễn dịch như thiếu hụt IgG có thể gặp ở trẻ nhỏ với các biểu hiện viêm tai giữa, viêm xoang và ho kéo dài; viêm mũi, dị dạng vách ngăn mũi gây chảy mũi sau cũng gây ho kéo dài; trào ngược dạ dày - thực quản...

Tóm lại, trẻ càng nhỏ thì càng có nhiều bệnh gây khò khè.

Trẻ nhỏ có khò khè tái phát nếu kèm theo các biểu hiện dị ứng khác và tiền sử gia đình có người bị hen thì thường có biểu hiện hen rõ rệt khi trẻ lớn.

PGS.TS.BS. Nguyễn Tiến Dũng

Cách nào phòng ngừa hạ kali do thuốc lợi tiểu?

Mẹ tôi 67 tuổi, mắc bệnh tăng huyết áp, được bác sĩ cho dùng thuốc trong đó có thuốc lợi tiểu clorothiazid. Bác sĩ dặn khi dùng thuốc này có nguy cơ bị hạ kali máu. Xin hỏi quý báo, mẹ tôi cần làm gì để phòng ngừa tác dụng không mong muốn này?

Bùi Xuân Hùng (Thái Bình)

Clorothiazid là thuốc lợi tiểu thuộc nhóm thiazid. Vị trí tác động của thuốc này ở ống lượn xa nằm ở vỏ thận làm tăng bài tiết muối, do đó sẽ làm thải nước tiểu, được sử dụng trong điều trị tăng huyết áp do hiệu quả hạ áp cao hơn các nhóm lợi tiểu khác. Khi dùng thuốc này có thể gặp phải những tác dụng không mong muốn như mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu, hạ huyết áp tư thế, loạn nhịp tim, trên da có thể xuất hiện mày đay, nhiễm cảm ánh sáng, nổi ban... Trong đó, tác dụng phụ thường gặp nhất là gây mất nhiều kali do tăng sự bài tiết kali vào trong nước tiểu. Tác dụng có hại này hay gặp ở người bệnh suy chức năng gan, suy tim nặng và người cao tuổi với các biểu hiện yếu cơ, đau, co rút cơ, bụng trướng, táo bón, nôn, buồn nôn, mạch yếu, tiếng tim nhỏ... Mức độ của tác dụng phụ này phụ thuộc vào liều lượng sử dụng nên nguy cơ tác dụng có hại có thể giảm bớt khi giảm liều. Do vậy, trong quá trình điều trị, bác sĩ sẽ lựa chọn liều thích hợp để vừa phát huy được tác dụng chống tăng huyết áp vừa giảm được nguy cơ mất quá mức kali, cũng giảm nguy cơ tăng acid uric máu và giảm nguy cơ tác dụng có hại trong chuyển hóa glucid. Bên cạnh đó, bạn vẫn nên khuyên mẹ sử dụng các thực phẩm và hoa quả có nồng độ kali cao như ngao, cá, khoai tây, chuối, cam, đào, mận... Nếu vẫn không yên tâm về chế độ ăn, bạn nên hỏi trực tiếp bác sĩ điều trị để mẹ bạn được bổ sung kali đường uống, tránh nguy cơ hạ kali máu.

BS. Nguyễn Văn Liên

Gene ung thư có tính di truyền

gene ung thu

Các nhà khoa học đã kiểm tra 1,162 bệnh nhân bị mắc chứng ung thư hiếm gặp có tên là ung thư mô liên kết (sarcoma) và phân tích những chuỗi DNA của 72 gene có liên quan tới việc tăng nguy cơ ung thư trong cơ thể của những bệnh nhân này. Kết quả, hơn 1/2 người trong số này mang những biến thể gene được cho rằng làm tăng nguy cơ bị ung thư.

gene ung thu

Những biến thể di truyền có trong các gene liên quan tới ung thư vú, buồng trứng, ruột thường được tìm thấy ở bệnh nhân bị ung thư mô liên kết. Cứ 1/5 bệnh nhân trên mang biến thể hoặc lỗi gene ở hơn 1 trên các gene được kiểm tra. Những bệnh nhân có biến thể ở nhiều gene ung thư phức hợp có nguy cơ cao bị ung thư ở độ tuổi trẻ hơn những bệnh nhân chỉ có một biến thể gene đơn nhất.

gene ung thu

“Việc kiểm tra gene có thể dẫn tới việc chẩn đoán bệnh sớm và thêm điều trị hiệu quả đối với những khối u ung thư”, bà Sarah McDonald - Giám đốc Viện Nghiên cứu ung thư mô liên kết tại Anh nhận định.

H.Anh

((Theo BBC))

Làm thế nào để bé không sợ khi đi làm răng?

Quá trình này diễn ra trong một thời gian rất dài và cố nhiên các bé sẽ gặp không ít những vấn đề về sức khỏe răng miệng, đơn giản là có những vết đen trên răng, rồi răng bị sâu, bị xiết, bị té gãy răng, rồi răng lung lay, hoặc thậm chí là răng vĩnh viễn đã mọc lên rồi và răng sữa vẫn chưa chịu rụng đi. Trong tất cả những trường hợp đó, lẽ dĩ nhiên là các bé phải đi gặp nha sĩ rồi.

Nhưng hầu hết - nếu như không muốn nói là tất cả - các bé đều rất sợ hãi điều này! Và nỗi sợ của bé trong trường hợp này là hoàn toàn chính đáng, là tâm lý hoàn toàn tự nhiên của các bé. Người lớn khi phải đi làm răng mặc dù đã ý thức được là không đau mà cũng sợ “toát mồ hôi” huống hồ các bé!

Câu chuyện chung của các bậc phụ huynh khi dẫn bé đến phòng khám đều kể rằng: bé rất sợ khi có răng lung lay. Mỗi lần phát hiện thêm chiếc răng nào lung lay con đều giấu nhẹm, mãi đến khi nó rệu rã chỉ còn dính một chút với da con mới dám khai báo. Ba mẹ hết lời khuyên bảo mà con vẫn một mực không chịu đến nha sĩ, nên buộc mẹ phải ra tay giải quyết… bằng chỉ. Phương pháp này vừa mất vệ sinh, lại càng làm cho bé thêm sợ hãi vì phương pháp này nhổ răng… đau thật. Nên nỗi sợ hãi của trẻ càng ngày càng lớn hơn. Mà hàm răng thì có đến bao nhiêu cái! Nhiều bậc phụ huynh thở dài ngao ngán, lo lắng khi phải “giải quyết” hết hai hàm răng sữa của con em mình…

lam rang

Vậy phải làm sao để bé yêu thích việc đến phòng nha? Hoặc ít ra là vững tâm hơn khi đến gặp các cô nha sĩ?

Đây sẽ phải là sự phối hợp giữa bác sĩ và phụ huynh.

Thứ nhất là làm quen, tiếp cận với trẻ theo từng độ tuổi. Ở mỗi độ tuổi trẻ sẽ có tâm lý khác nhau. Bác sĩ, y tá phải tiếp cận với trẻ tùy theo từng độ tuổi. Bác sĩ, y tá nên trang bị một số kỹ năng cần thiết để dễ gần gũi trẻ, tạo cho trẻ sự than thiết như bạn bè. Ví dụ bác sĩ, y tá có thể cùng bé sử dụng bong bóng để tạo hình những con thú, đồ vật.

Không bao giờ chào đón trẻ với khẩu trang và găng tay. Áo blouse cũng hạn chế sử dụng. Thậm chí khi đi đã bắt đầu điều trị được chỉ mang khẩu trang và găng tay khi cần thiết.

Trong lần điều trị đầu tiên, ưu tiên thực hiện những thủ thuật đơn giản để trẻ tập làm quen.

Đánh lạc hướng và tạo sự thích thú cho trẻ bởi những hình ảnh, đồ chơi cho trẻ ở ngoài phòng đợi, thậm chí là cả ở phòng điều trị. Gắn màn hình có chiếu phim hoạt hình trên ghế điều trị là một trong những cách hay để tạo sự thích thú cho trẻ.

Điều quan trọng cuối cùng là trong suốt quá trình điều trị phải thật nhẹ nhàng, tuyệt đối không làm đau cho trẻ. Bác sĩ phải rèn luyện được kỹ năng gây tê, nhổ răng không đau.

lam rangĐánh lạc hướng và tạo sự thích thú cho trẻ bởi những hình ảnh, đồ chơi cho trẻ ở ngoài phòng đợi, thậm chí là cả ở phòng điều trị

Ở khía cạnh của phụ huynh, cũng sẽ có rất nhiều cách để giúp động viên tinh thần bé trước khi đi khám nha sĩ. Các bậc cha mẹ hãy kể cho bé nghe những câu chuyện ví dụ như Gấu con bị đau răng, Thỏ con đi khám răng. Một câu chuyện có lẽ rất hay là kể về Bà Tiên Răng. Nội dung kể về một cô bé mỗi lần nhổ răng thường lấy chiếc răng đó gói lại rồi đem giấu dưới gối, đến khuya bé ngủ say có một Bà Tiên răng xuất hiện mang chiếc răng đi và để lại cho bé một món quà rất dễ thương...

Hoặc trong những lần đi khám răng, cha mẹ nên dẫn trẻ đi theo. Cho trẻ ngồi bên quan sát cha mẹ “được” làm răng không đau, không chảy máu… cũng là một cách để trẻ tiếp cận từ từ, để dần vượt qua nỗi ám ảnh của… phòng nha.

Ths.BS. NGUYỄN BÁ L N

Những vấn đề sức khỏe thường gặp ở trẻ ngày nắng nóng

Trong những ngày qua, số trẻ em phải nhập viện đã tăng lên rất nhiều. Có những bệnh viện, lượng bệnh nhân nhi tăng đến 40%, là do thời tiết quá nóng, nhất là ở các tỉnh miền Trung.

Theo Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường (Bộ Y tế), thời tiết nắng nóng kéo dài, nhiệt độ tăng cao khiến cho trẻ em gặp nhiều vấn đề về sức khỏe như viêm đường hô hấp cấp, tiêu chảy. Không ít trẻ do thời tiết nóng, chơi ở ngoài trời lúc nắng to có thể bị say nóng, say nắng. Vì thế, các bậc cha mẹ cần biết cách chăm sóc, quản lý trẻ để tránh cho trẻ bị ốm đau trong mùa hè nắng nóng này.

Viêm đường hô hấp

Viêm đường hô hấp thường có nguyên nhân do trẻ bị nhiễm lạnh. Khi trẻ nóng, mồ hôi ra nhiều làm ướt áo, nếu bật quạt gió mạnh trực tiếp vào người trẻ, mồ hôi sẽ bay hơi nhanh làm cho nhiệt độ giảm xuống, trẻ có thể nhiễm lạnh. Bên cạnh đó, việc bật điều hòa nhiệt độ quá thấp trong phòng ngủ cũng khiến cho trẻ dễ bị nhiễm lạnh.

Trong điều kiện như vậy, trẻ rất dễ bị viêm họng cấp, viêm VA, viêm amidan, viêm phế quản, biến chứng viêm phổi với các biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, ho, khó thở, sốt cao có thể bị co giật.

Vì vậy, để tránh cho trẻ bị viêm đường hô hấp trong thời tiết nóng, không nên bật quạt quá mạnh trực tiếp vào người trẻ; nếu trẻ nhỏ ra mồ hôi nhiều thì dùng khăn bông lau khô cho trẻ, nhất là ở lưng; không để chênh lệch nhiệt độ quá cao giữa phòng điều hòa nhiệt độ và bên ngoài (không nên để nhiệt độ chênh lệch quá 5oC); hạn chế cho trẻ uống nước đá, ăn kem, ăn thức ăn trực tiếp từ tủ lạnh. Cho trẻ ăn đủ chất, bổ sung vitamin và chất khoáng để tăng cường sức đề kháng cho trẻ.

Nếu trẻ sốt, cho trẻ uống nước oresol để bù nước và chất điện giải. Khi sốt trên 38,50C, cần cho trẻ uống thuốc giảm sốt. Cần cho trẻ tới khám ở các cơ sở y tế để điều trị kịp thời, tránh để bệnh nặng và các biến chứng.

Say nóng

Say nóng là biểu hiện của sự tăng nhiệt độ bên trong cơ thể gây ra do sự mất cân bằng nhiệt giữa quá trình sinh nhiệt và tỏa nhiệt. Người ta còn gọi say nóng là hội chứng “đột quỵ do nhiệt”.

Nguyên nhân xảy ra là do trẻ em, học sinh sau khi chơi, chạy nhảy hay hoạt động nhiều ở nơi có nhiệt độ không khí, độ ẩm cao, bí gió làm cản trở quá trình cơ thể tỏa nhiệt vào không khí, dẫn đến nhiệt độ bên trong cơ thể tăng lên đến 38,5oC, đôi khi cao tới 40 -410C.

Người bị say nóng ở mức nhẹ thường có biểu hiện vã mồ hôi, nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, có cảm giác khát nước ngày càng tăng, có cảm giác buồn nôn, khó thở, tức ngực, người nóng. Mạch và nhịp thở tăng. Trường hợp nặng thì bị rối loạn hô hấp, nhịp thở nhanh và yếu, người tím tái và có thể bị ngất.

Cách xử trí: nếu bị say nóng nhẹ, cần nhanh chóng đưa nạn nhân vào chỗ thoáng mát, cho nằm nghỉ ngơi thì các triệu chứng sẽ mất dần. Nếu bị nặng cần nhanh chóng đưa nạn nhân vào chỗ mát, cởi bớt quần áo. Có thể chườm lạnh ở vùng trán và gáy bằng khăn ướt và theo dõi nhiệt độ cơ thể. Cho nạn nhân uống nước mát, tốt nhất là cho uống nước pha oresol đúng liều lượng. Cần thiết có thể tiêm thuốc trợ tim và truyền dịch để phục hồi.

Say nắng

Say nắng cũng thường hay gặp ở trẻ em, học sinh khi đi hay hoạt động một thời gian dài ở ngoài trời nắng mà không đội mũ nón để tia nắng mặt tròi chiếu vào đầu, gáy và các phần hở trên cơ thể. Tia tử ngoại trong ánh nắng có khả năng xuyên qua lớp sừng của da tới hạ bì gây cháy da (bỏng độ I) và say nắng.

Nếu bị say nắng nhẹ thì các em sẽ cảm thấy mệt mỏi, chóng mặt, hoa mắt, ù tai. Đôi khi bị buồn nôn hoặc nôn. Nhiệt độ cơ thể có thể tăng cao hơn bình thường.Nếu bị say nắng nặng, nạn nhân có thể bị rối loạn phản xạ, đôi khi có thể bị co giật.

Xử trí say nắng cần nhanh chóng đưa trẻ vào chỗ mát và thoáng khí, đồng thời nới rộng quần áo, dùng khăn thấm nước mát đắp vào người trẻ. Cho trẻ uống nhiều nước, có thể cho uống thuốc hạ nhiệt nếu người tỉnh táo. Trường hợp trẻ không tỉnh thì nhanh chóng chuyển tới cơ sở y tế gần nhất.

Ngoài ra, do nhiệt độ cao nên các loại vi rút, vi khuẩn, ký sinh trùng gây bệnh, côn trùng truyền bệnh cũng phát triển mạnh trong thực phẩm cũng như ngoài môi trường, làm tăng nguy cơ ngộ độc thực phẩm và mắc một bệnh dịch như sốt vi rút, tiêu chảy, sốt xuất huyết v.v… Vì vậy, cần dọn dẹp và bảo đảm vệ sinh nơi ở, ăn chín, uống sôi, sử dụng thực phẩm an toàn.

Đây cũng là thời điểm dễ xảy ra đuối nước vì thời tiết nắng nóng trẻ em hay rủ nhau ra sông, suối, hồ ao để tắm. Thực tế đuối nước thường xảy ra ở ngay gần nơi sinh sống của các em. Để phòng trách xảy ra đuối nước, các bậc cha mẹ cần luôn nhắc nhở trẻ không được tắm sông, hồ, ao nước sâu. Nếu có điều kiện thì tiến hành dạy bơi cho các em.

Minh Trí(TheoViện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường)

Nhận diện, xử trí nhiễm độc phenol

Trong số 129 ra ngày 12/8, báo SK&ĐS đã có bài viết Chất độc cyanua ảnh hưởng tới sức khỏe như thế nào? Tiếp theo loạt bài của các chuyên gia về một số chất độc có trong hải sản ở vùng biển bị ô nhiễm ở miền Trung nước ta thời gian gần đây, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của TS.BS. Lê Thanh Hải về chất phenol trong các nguồn thải môi trường ảnh hưởng thế nào đến sức khỏe người bị phơi nhiễm và hướng dẫn cách xử lý sơ cứu ban đầu trong trường hợp tiếp xúc trực tiếp với phenol.

Phenol là chất rắn, tinh thể không màu, có mùi đặc trưng, nóng chảy ở 43°C. Phenol là những hợp chất hữu cơ trong phân tử có nhóm OH liên kết trực tiếp với nguyên tử C vòng benzen.

Phenol được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau: Công nghiệp chất dẻo dùng để điều chế nhựa phenol formaldehyde; Công nghiệp tơ hóa học tổng hợp ra tơ polyamide; Nông dược điều chế được chất diệt cỏ dại và kích thích tố thực vật; Phenol cũng là nguyên liệu để điều chế phẩm nhuộm, thuốc nổ; Phenol được dùng để làm chất sát khuẩn, tẩy uế hoặc chế các chất diệt nấm mốc.

Trong các nguồn thải phenol vào môi trường, một nguồn thải quan trọng của phenol là sản phẩm chất thải của quá trình công nghiệp được đưa vào các hệ sinh thái thủy sinh, ảnh hưởng xấu đến hệ sinh vật bản địa bao gồm tảo, động vật nguyên sinh, động vật không và có xương sống. Ngoài độc tính đã rõ, phenol gây ra nhiều hiệu ứng khác đối với các sinh vật, chẳng hạn như khả năng sinh sản giảm, giảm sống sót của giai đoạn trẻ và ức chế sự tăng trưởng. Phenol được hấp thu nhanh qua da và hít qua phổi. Sau khi hấp thụ một lượng vừa phải của phenol, nó được giải độc bằng cách kết hợp với sulfuric, acid glucuronic và bài tiết trong nước tiểu. Phơi nhiễm cao với phenol có thể gây tử vong cho con người, trẻ em nhạy cảm hơn với phenol.

nhiem doc phenolCơ quan chức năng kiểm tra sản phẩm có chứa phenol.

Phenol có thể được tìm thấy trong không khí và nước sau khi thải ra từ việc sản xuất, sử dụng và xử lý sản phẩm có chứa phenol. Phenol trong đất có khả năng di chuyển đến nước ngầm. Phenol được nhanh chóng bị phá vỡ trong không khí, thường là trong vòng 1,5 ngày - 2 ngày. Phenol có thể tồn tại trong nước cho một tuần hoặc nhiều hơn. Phenol còn lại trong đất có thể bị phá vỡ ra bởi vi khuẩn hoặc vi sinh vật khác.

Nếu bạn đang tiếp xúc với phenol, nhiều yếu tố sẽ quyết định bạn bị tổn hại. Những yếu tố này bao gồm liều lượng, thời gian và làm thế nào bạn tiếp xúc với nó. Các tác dụng cấp tính và mạn tính do phenol (nguồn: United states Environmental protection Agency).

Hiệu ứng cấp tính

Hít phải và tiếp xúc qua da với phenol gây khó chịu cho da, mắt và màng niêm mạc ở người.

Các triệu chứng của ngộ độc cấp tính ở người bao gồm thở không đều, yếu cơ và run cơ, mất phối hợp, co giật, hôn mê và ngừng hô hấp ở liều gây chết người.

Thử nghiệm động vật cấp tính ở chuột và thỏ cho thấy phenol có độc tính cao từ việc tiếp xúc bằng miệng.

Hiệu ứng mạn tính

Chán ăn, giảm cân, tiêu chảy, chóng mặt, tiết nước bọt và nước tiểu có màu tối đã được báo cáo ở người tiếp xúc mạn tính với phenol. Kích thích dạ dày ruột, ảnh hưởng máu và gan cũng đã được báo cáo.

Tiếp xúc của phenol lên da cho kết quả viêm da và hoại tử da. Loạn nhịp tim cũng đã được báo cáo ở người tiếp xúc với nồng độ cao của phenol.

Hít phải mạn tính của động vật đối với phenol đã cho thấy ảnh hưởng lên hệ thống thần kinh trung ương, thận, gan, hô hấp và tim mạch.

Ảnh hưởng sinh sản và phát triển

Các nghiên cứu trên động vật đã báo cáo giảm trọng lượng cơ thể của thai nhi, chậm phát triển thai nhi và phát triển bất thường ở thế hệ con của động vật tiếp xúc với phenol bằng đường uống. Giảm tăng cân của động vật mẹ và gia tăng tỷ lệ tử vong động vật mẹ cũng đã được quan sát.

Có nguy cơ ung thư?

Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA) đã phân loại phenol thuộc nhóm D, không phân loại vào chất gây ung thư của con người dựa trên một sự thiếu dữ liệu về tác dụng gây ung thư ở người và động vật.

Tham khảo một số quy định và khuyến nghị (*) cho phenol bao gồm những điều sau đây:

Khuyến nghị hướng dẫn có giá trị để bảo vệ sức khỏe cộng đồng do một số cơ quan Hoa Kỳ đưa ra: Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA), Cơ quan Quản lý Vấn đề An toàn và Sức khỏe lao động (Occupational Safety and Health Administration: OSHA) và Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm - FDA (xem bảng ).

nhiem doc phenol

Hướng dẫn về các xử lý sơ cứu khẩn cấp ban đầu trong các trường hợp tiếp xúc trực tiếp với phenol.

Xử lý ban đầu khi tiếp xúc trực tiếp với phenol

Với da: Hủy bỏ bất kỳ quần áo bị nhiễm phenol ngay lập tức. Mang găng tay thích hợp để tránh ô nhiễm thêm hoặc gây thương tích cho người sơ cứu đầu tiên.

Xối rửa vùng da bị ảnh hưởng với nhiều nước trong ít nhất 15 phút để loại bỏ bất kỳ phenol có thể được nằm trên bề mặt của da chưa kịp hấp thu.

Sau khi tưới rửa ban đầu với nước, áp dụng polyethylene glycol (trọng lượng phân tử 300) thường được gọi là PEG300 hoặc macrogol 300 trong ít nhất 30 phút hoặc cho đến khi nạn nhân được chuyển và nhận điều trị tại các đơn vị cấp cứu.

Với mắt: Trong trường hợp tiếp xúc mắt sẽ có cơn đau dữ dội và đỏ mắt. Rửa mắt bị ảnh hưởng với nhiều nước và chuyển đến các đơn vị cấp cứu ngay lập tức.

Khi hít phải: Tạo môi trường thoáng khí xung quanh. Thở oxy nếu có thể và chuyển đến các đơn vị cấp cứu ngay lập tức.

Khi nuốt phải: Không được ép nôn; không bao giờ sử dụng miệng để hô hấp nạn nhân và chuyển đến các đơn vị cấp cứu ngay lập tức.

(*) (nguồn: The Agency for Toxic Substances and Disease Registry (ATSDR). Public Health Statement for Phenol. September 2008).

TS.BS. Lê Thanh Hải

Không gian sinh hoạt cho trẻ tự kỷ

Sau đây là vài nguyên tắc thiết kế quan trọng nhất giúp các bậc cha mẹ của trẻ tự kỷ kiến tạo nên những không gian sinh hoạt yên tĩnh và phù hợp với nhất với con mình.

Bố trí không gian

Khi thiết kế phòng riêng cho trẻ tự kỷ, cách bố trí không gian chính là yếu tố cần được quan tâm hàng đầu. Hãy bắt đầu từ việc xem xét diện tích và tỉ lệ của căn phòng. Bạn muốn bố trí những vật dụng gì trong đây? Hãy lên danh sách những vật dụng đó và tuần tự sắp đặt vào phòng của trẻ.

Để biết được mình nên bố trí những vật dụng gì trong phòng của con mình, chúng ta cần hiểu rõ nhu cầu của trẻ, dành thời gian quan sát những phản ứng của bé đối với môi trường xung quanh mình trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó, chúng ta sẽ xác định xem mình sẽ để bé định hướng, di chuyển và sinh hoạt trong phòng theo trình tự nào cho an toàn, thuận tiện và phù hợp nhất với tâm lý và sở thích của bé. Đây chính là cơ sở để các bậc cha mẹ phác thảo nên bố trí không gian sơ bộ cho phòng của trẻ.

Nguyên tắc cơ bản ở đây là sắp đặt toàn bộ bàn ghế, kệ và tủ ở sát các bức tường và để trống khoảng không gian ở giữa. Cách bố trí này vừa đơn giản, vừa giúp trẻ tự kỷ có thể di chuyển và sinh hoạt trong phòng một cách thuận tiện và an toàn. Khi chúng ta sắp đặt bàn ghế, kệ và tủ ở sát tường, bé có thể tiếp cận, tìm kiếm và lấy các đồ vật một cách dễ dàng và nhanh chóng nhất mà không phải nhờ đến sự hỗ trợ của người lớn.

tu kyThấu hiểu trẻ chính là nguyên tắc chung nhất

Kiểm soát tiếng ồn

Trẻ em tự kỷ rất nhạy cảm với tiếng động lớn, không có khả năng chống chịu hoặc thích nghi với tiếng ồn một cách dễ dàng như người bình thường. Tiếng ồn không chỉ khiến các bé thường xuyên rơi vào tình trạng âu lo hoặc sợ hãi, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến những thói quen và hành vi hàng ngày của trẻ. Để đảm bảo không gian sinh hoạt yên tĩnh cho bé, chúng ta có vài cách đơn giản để hạn chế tiếng ồn len lỏi vào đó.

Việc đầu tiên cần làm chính là tìm hiểu những tiếng ồn có thể nghe được trong phòng của trẻ. Những tiếng ồn này xuất phát từ đâu? Một khi xác định được nguồn gốc các tiếng ồn, chúng ta có thể hạn chế chúng bằng những biện pháp kiến trúc đơn giản như lắp đặt tường cách âm hoặc các tấm cách âm. Tấm cách âm không chỉ giúp giảm bớt tiếng ồn, mà còn có thể phát huy tác dụng như những chi tiết trang trí nội thất trên tường và giúp cho căn phòng của bé được sinh động hơn.

Một cách khác để hạn chế tiếng ồn trong phòng của trẻ chính là thay thế sàn gỗ bằng thảm. Thảm được xem là một loại vật liệu phủ sàn thân thiện với trẻ tự kỷ bởi tính năng hạn chế nguy cơ chấn thương ở trẻ khi chơi đùa hoặc vấp té. Ngoài ra, thảm còn có tác dụng hạn chế hiện tượng phản quang gây chói mắt và giảm bớt tiếng ồn trong phòng.

Thiết kế ánh sáng

Các nhà khoa học đã chứng minh ánh sáng có khả năng chi phối tâm trạng của con người. Trong khi đó, trẻ tự kỷ nhạy cảm với ánh sáng hơn cả người bình thường. Do vậy, đây là một yếu tố quan trọng mà cha mẹ cần xem xét khi thiết kế phòng cho bé.

Phòng sinh hoạt của trẻ tự kỷ cần hạn chế sử dụng đèn huỳnh quang. Ánh sáng đèn huỳnh quang thường có tính chất lập lòe; với chất lượng chiếu sáng phụ thuộc nhiều vào điện năng và loại đèn, nó có thể gây chói mắt. Ánh sáng lập lòe không chỉ khiến trẻ dễ bị mất tập trung, mà còn có nguy cơ gây mỏi mắt và đau đầu. Việc chiếu sáng kém chất lượng đặc biệt gây ảnh hưởng tiêu cực đối với những trẻ nhạy cảm với ánh sáng.

Nếu phòng của con bạn đang sử dụng loại đèn không phù hợp, hãy thay đổi bóng đèn ngay lập tức. Ưu tiên chọn loại bóng đèn có ánh sáng khuếch tán hoặc loại đèn có thể điều chỉnh độ sáng. Với loại đèn có nút vặn điều chỉnh như thế, chúng ta dễ dàng lựa chọn và thay đổi độ sáng của đèn sao cho phù hợp nhất với nhu cầu của bé.

Thiết kế màu sắc

Việc thiết kế màu sắc cho phòng của trẻ có thể trở nên căng thẳng với các bậc cha mẹ khi chúng ta có vô vàn màu để lựa chọn. Đối với trẻ tự kỷ, những màu sắc phù hợp nhất chính là những gam màu dịu nhẹ và trung tính. Tương tự như ánh sáng, một số màu sắc nhất định có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tâm trạng của trẻ tự kỷ. Cần tuyệt đối tránh xa những sắc màu quá tươi hoặc quá tối. Trong khi việc thiết kế phòng cho trẻ em bình thường khuyến khích những màu sắc tươi sáng rực rỡ, đây lại là điều cần hạn chế tối đa đối với không gian sinh hoạt của trẻ tự kỷ. Những màu sắc tươi sáng chỉ nên được dùng làm những điểm nhấn nhỏ trong phòng.

Nếu bạn sử dụng giấy dán tường trong phòng của trẻ, cần hạn chế các mẫu giấy dán tường có quá nhiều đường kẻ hoặc hoa văn cầu kỳ, vì chúng có thể khiến trẻ tự kỷ cảm thấy bối rối và mất tập trung. Ưu tiên sử dụng màu sắc dịu nhẹ và các loại sơn tường có thành phần an toàn cho sức khỏe của trẻ.

Không gian riêng tư

Nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã cho thấy tầm quan trọng của “Không gian cảm giác” (Sensory Room) đối với khả năng cải thiện và hồi phục của trẻ tự kỷ. Đây là nơi mà trẻ tự kỷ được thoát khỏi những sự huyên náo bên ngoài để nghỉ ngơi, thư giãn và đắm mình trong cảm giác bình yên. Trong phòng riêng của trẻ, bạn hãy dành một góc nhỏ riêng biệt để bài trí “Không gian cảm giác” cho bé. Bạn có thể phân biệt không gian này với phần còn lại của căn phòng bằng những biện pháp đơn giản như: sử dụng màn che hoặc một mảng tường ngăn cách. “Không gian cảm giác” được kiến tạo nhằm mục đích giúp trẻ tự kỷ cảm thấy thoải mái, bình yên và đập tan được mọi sự âu lo. Bạn có thể bố trí trong đó những vật dụng như ghế lười, đồ chơi, tấm nhún và bóng tập thể dục có kích thước phù hợp với trẻ để bé có thể tha hồ thư giãn và giải phóng cảm xúc của mình.

ThS. PHAN NGUYỄN KHÁNH ĐAN

Cần bảo vệ trẻ em trong những ngày nắng nóng

Sau 9 tháng học tập tại trường lớp, được nghỉ hè đứa trẻ nào cũng vui thích. Để trẻ tận hưởng một mùa hè thú vị vui chơi được trọn vẹn, các bậc cha mẹ cần quan tâm tới chúng. Cần phải hướng dẫn kỹ năng an toàn cho trẻ, luôn luôn để mắt tới trẻ, đề phòng một số tai nạn bất thường có thể xảy ra.

Tai biến trúng nóng

Trúng nóng là một trường hợp thường gặp trong mùa hè. Nguyên nhân do tiết trời quá nóng bức, trẻ mặc quần áo dày, chật và bí, ở trong những căn buồng quá chật hẹp, nóng, không thông thoáng, ngột ngạt hơi người. Hoặc trẻ vui chơi ở ngoài trời nắng nóng nhiệt độ quá cao. Tuy cơ thể vẫn có một số cơ quan có khả năng điều hoà được thân nhiệt, trong đó chủ yếu là một bộ phận được gọi là “Trung tâm điều hoà nhiệt” nằm trên não. Khi cơ thể bị nóng quá mức, trung tâm này sẽ phản ứng lại bằng một số biện pháp để giải toả nhiệt, chủ yếu bằng cách ra mồ hôi. Khi cơ thể xuất được mồ hôi thân nhiệt sẽ giảm xuống. ở người lớn trung tâm điều hoà thân nhiệt đã phát triển, thì sự giải toả nhiệt có tốt hơn, do đó ít bị trúng nóng. Nhưng ở trẻ em trung tâm này chưa phát triển hoàn chỉnh, nên sự giải toả nhiệt chưa tốt, do đó nếu cơ thể trẻ nhiễm nóng quá lâu, rất dễ bị trúng nóng.

Điều kiện gây ra trúng nóng là nhiệt độ không khí cao, ẩm và không có gió. Trẻ thiếu nước uống, khiến cơ thể bị nóng quá làm rối loạn hệ thần kinh trung ương. Hệ thần kinh của trẻ nhỏ rất nhạy cảm với nhiệt, khi nhiễm nóng quá dễ bị rối loạn tuần hoàn não, phù não và có thể chảy máu não. Từ đó làm rối loạn hoạt động của tim mạch và hô hấp, đồng thời kèm theo rối loạn về chuyển hóa (muối, nước), hạ glucose huyết gây ra tình trạng nguy kịch.

Triệu chứng trúng nóng dễ nhận biết. Khởi đầu là những dấu hiệu về hệ thần kinh: Trẻ đột nhiên khóc, vật vã rồi sốt li bì, nhiều trẻ lên cơn giật. Những trẻ đã lớn thì tự nhiên thấy tối tăm mặt mũi, chóng mặt, nhức đầu, buồn nôn. Thời kỳ sau, trẻ thường sốt cao, có thể đến 40oC, mặt đỏ bừng, thân mình cũng đỏ (do giãn mạch), vã mồ hôi; hơi thở nhanh và nóng, tim đập nhanh, mạch nhỏ khó bắt, rất khát nước. ở thời kỳ này nếu trẻ được sơ cứu ngay sẽ dễ qua khỏi. Nhưng nếu để trúng nóng chuyển sang thời kỳ nặng với các triệu chứng mất nước, truỵ tim mạch (da tái nhợt, chân tay lạnh, mạch và huyết áp nhiều khi không lấy được, vô niệu...), hôn mê... việc cứu chữa sẽ rất khó khăn.

Sơ cứu trẻ trúng nóng cần thực hiện sớm, chủ yếu là làm hạ nhiệt (đưa trẻ ra chỗ mát, thoáng khí, cởi bỏ quần áo, lau người bằng nước mát...) và bù nước, điện giải. Biện pháp dễ thực hiện là dùng nước khoáng, hoặc nước đun sôi để nguội có pha ít muối, đường (1 lít nước pha với ẵ thìa cà phê muối và 2 gạt thìa canh đường), nước hoa quả tươi. Cho trẻ uống bằng cốc và thìa nhiều lần cho tới khi trẻ đỡ khát, tỉnh táo, đi tiểu trở lại là những triệu chứng tốt. Những trường hợp nặng, ngoài việc sơ cứu, đồng thời cần khẩn trương gọi xe cấp cứu đến ngay.

Để phòng tránh trúng nóng, mùa hè cần cho trẻ mặc quần áo thoáng mát bằng vải sợi bông, khi ra ngoài trời phải đội mũ. Không để trẻ ngủ dưới nắng dù có che chắn nắng. Không để cho trẻ đi xe ô tô thời gian dài dưới trời nắng nóng, nhất là trong khoảng thời gian từ 12 đến 16 giờ. Đem theo nước, thường xuyên cho trẻ uống nước.

Cần hết sức thận trọng khi cho trẻ đi tắm ở sông, hồ

Và say nắng

Say nắng còn gọi là “trúng nắng” khi trẻ nô đùa, đá bóng, nhảy dây... ngoài trời nắng. Nguyên nhân của chứng say nắng là do cơ thể đứa trẻ đã bị phơi dưới ánh nắng nóng quá lâu, vượt quá mức chịu đựng của cơ thể, gây ra nhiều rối loạn cho các cơ quan, nhất là cho hệ thần kinh. Cơ thể mất nhiều nước, kèm theo rối loạn điều hòa thân nhiệt. Say nắng gần giống như trong nóng, nhưng nặng hơn. Trúng nóng là do trung tâm điều hoà thân nhiệt không thích ứng nổi với môi trường nóng xung quanh; còn say nắng, bản thân trung tâm điều hòa thân nhiệt bị chấn động, bị kích thích vì tia nắng chiếu thẳng vào đầu, cổ, gáy...

Về triệu chứng, trẻ mệt mỏi, mắt lờ đờ, cơ thể nóng ran, da khô không có mồ hôi, mặt đỏ gay, nhiệt độ cơ thể lên đến 41oC. Nhịp thở nhanh, mạch yếu khó bắt hoặc không còn. Trường hợp nặng, trẻ hôn mê và lên cơn co giật.

Gặp trường hợp trẻ say nắng cần gọi xe cấp cứu ngay. Nhưng trước tiên cần khẩn trương sơ cứu:

- Đặt trẻ nằm trong một phòng thoáng mát, cởi hết quần áo, để giúp cơ thể có điều kiện giải tỏa bớt nhiệt lượng. Trường hợp say nắng được phát hiện ở ngoài trời, có thể để cho trẻ nằm dưới bóng cây râm mát, giải tán bớt những người hiếu kỳ xung quanh. Dùng quạt quạt mát cho trẻ.

- Dùng khăn bông rấp nước mát đắp lên đầu, lên trán trẻ để tránh tình trạng tụ máu trên não, thường xảy ra khi nhiệt độ lên cao. Dùng một khăn bông khác, cũng rấp nước mát lau khắp mình và chân tay trẻ. Mục đích nhằm làm mát cơ thể, làm thông sạch các lỗ chân lông, giúp cho nhiệt lượng cơ thể dễ thoát ra.

- Cho trẻ uống nước đầy đủ để bù lại lượng nước trong cơ thể đã bị tiêu hao do nhiệt độ cao. Có thể cho trẻ uống nước quả tươi, nước khoáng, hoặc nước đã đun sôi để nguội. Cho uống từ từ ít một để tránh nôn.

Với các biện pháp sơ cứu trên, nhiều trẻ đã qua được cơn nguy kịch trước khi xe cấp cứu tới.

Cảm lạnh

Sự thích nghi của cơ thể trẻ chống lạnh là có giới hạn. Nếu nhiễm lạnh kéo dài, hoặc quá đột ngột cơ thể đứa trẻ không thích nghi được thì có thể xảy ra cảm lạnh. Mùa hè nhưng vẫn cảm lạnh thường gặp trong một số trường hợp sau:

- Để trẻ ngủ ở nơi lộng gió hoặc nằm ngủ trong phòng có máy điều hòa nhiệt độ quá lạnh, do mát ngủ quên cũng dễ bị cảm lạnh.

Khi cơ thể đứa trẻ bị nhiễm lạnh sức chống đỡ của cơ thể bị suy yếu, các vi sinh vật tiềm tàng ở mũi họng thừa thế tấn công gây viêm nhiễm đường hô hấp trên ho, sốt, chảy nước mũi... thậm chí có thể gây viêm phế quản cấp.

Để phòng bệnh, không nên cho trẻ nằm ngủ ở nơi lộng gió, gió lùa. Nếu dùng quạt máy chỉ để số có tốc độ quay nhỏ, và đắp cho trẻ một khăn mỏng lên bụng. Người mẹ (hoặc bố) cần tỉnh ngủ hơn, khi về khuya trời mát, điện lại mạnh lên, cần tắt quạt máy hoặc không cho quạt về phía đứa trẻ.

- Đang nóng bức ra nhiều mồ hôi tắm mát ngay. Trẻ khoẻ mạnh, đang nô đùa nóng người ra nhiều mồ hồi, nhảy ngay xuống sông suối... tắm mát ngay làm cho cơ thể bị nóng lạnh đột ngột. Hậu quả là cảm sốt cao phải cứu chữa, thậm chí có trường hợp tử vong.

Khi nóng bức nhiệt độ trong cơ thể tăng, ra nhiều mồ hôi và giãn mạch máu ngoài da là sự giải toả nhiệt quan trọng của cơ thể trẻ giữ cho thân nhiệt được hằng định ở 37oC. Lúc này nếu tắm mát ngay, da bị nước lạnh kích thích phản xạ của dây thần kinh làm mạch máu dưới da đột biến co lại, cơ thể không toả nhiều được, thân nhiệt sẽ tăng cao gây cảm sốt. Do vậy, cần hướng dẫn cho trẻ: khi cơ thể đang nóng bức ra nhiều mồ hôi, không nên lội xuống nước tắm ngay. Phải ngồi một lúc ở nơi thoáng mát cho ráo mồ hôi mới tắm.

Đề phòng đuối nước

Tai nạn chết đuối tuy không nhiều nhưng vẫn thường xảy ra, đặc biệt cần lưu ý trong dịp nghỉ hè có nhiều trẻ rủ nhau đi tập bơi, tắm mát ở biển, sông, hồ... Nếu không được sơ cứu kịp thời dễ dẫn tới tử vong. Khi trẻ chìm vào nước bị ngạt nước, ngừng thở hoặc co thắt thanh quản sẽ xảy ra. Hậu quả là giảm oxy máu dẫn đến mất tri giác, trụy tuần hoàn. Ngoài ra khi ngạt nước, do phản xạ gây ra thở hút dồn dập làm hút nước vào thêm dẫn đến phù phổi. Từ giảm oxy máu, mất tri giác, nếu không cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến tổn thương thần kinh trung ương từ phút thứ tư đến phút thứ sáu. Giảm oxy còn dẫn đến toan hóa máu, tăng áp lực nội sọ, phù não, tái phân bố bất thường ở hệ tuần hoàn.

Gặp những trường hợp này phải khẩn trương cấp cứu ngay từ dưới nước. Nắm tóc đứa trẻ bị nạn để đầu nhô lên mặt nước, lôi vào bờ. Ngay khi chân người cứu đã chạm đất, cần đặt miệng mình vào miệng trẻ hà hơi thổi ngạt ngay. Khi đã đưa được trẻ lên bờ, cởi bỏ quần áo ướt, móc họng khai thông miệng ngay. Để trẻ nằm úp sấp, vòng tay qua bụng, nâng lên đặt xuống 10 lần cho nước ộc ra - đó cũng là những động tác hô hấp nhân tạo. Hoặc đặt trẻ nằm sấp, đầu nghiêng một bên , đặt hai bàn tay phía sau lưng, ấn xuống để nước thoát ra, sau đó thả ra để ngực nở ra, rồi lại ấn tiếp đều đặn 30 lần/phút (phương pháp hô hấp Schaffer). Nếu là trẻ nhỏ, cầm hai chân dốc ngược lên, lấy lòng bàn tay đập vào vùng giữa lưng 10 lần. Lấy khăn lau sạch mũi, họng, miệng, rồi tiến hành hà hơi thổi ngạt (miệng qua miệng), kết hợp với xoa bóp tim ngoài lồng ngực. Cần kiên nhẫm làm liên tục cho đến khi trẻ thở lại.

Khi trẻ thở lại, lau khô người trẻ, xoa dầu nóng toàn thân, quấn chăn ấm cho trẻ và chuyển ngay tới bệnh viện, hoặc trạm y tế gần nhất. Trong quá trình di chuyển, cần theo dõi trẻ thật sát, nếu cần vẫn phải tiếp tục hồi sức tim – phổi cho trẻ.

Ngoài ra, cần hướng dẫn trẻ vui chơi an toàn phòng tránh các tai biến. Không đá bóng trên đường phố để tránh bị xe ô tô, xe gắn máy đâm phải gây thương tích nặng, thậm chí chết người. Không tò mò hái ăn thử các quả hoang dại mọc ở hàng rào, trong rừng, ven suối... để tránh tai nạn do ăn phải quả độc. Không thả diều ở gần đường dây tải điện, nhất là điện cao thế để tránh bị điện giật chết người. Không leo trèo cây cao hái quả, bắt tổ chim... để đề phòng ngã gãy chân tay.

BS. Vũ Hướng Văn

Loại bỏ phiền toái của bệnh viêm bàng quang kích thích

Viêm bàng quang kích thích là một dạng viêm bàng quang, gặp chủ yếu ở người trưởng thành. Nguyên nhân là do cơ của bàng quang co bóp bất thường gây hiện tượng đi tiểu nhiều lần hoặc tiểu gấp, tiểu són kèm theo bàng quang bị viêm nhiễm vi sinh vật gây bệnh. Bệnh tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng gây ra nhiều phiền toái, khó chịu cho người bệnh.

Bàng quang kích thích là gì?

Bệnh viêm bàng quang kích thích là khi cơ của bàng quang co bóp bất thường gây hiện tượng đi tiểu nhiều lần hoặc tiểu gấp, tiểu són kèm theo bàng quang bị viêm nhiễm vi sinh vật gây bệnh. Bệnh này có thể xảy ra ở cả nam lẫn nữ và thường gặp nhiều hơn ở phụ nữ có tuổi. Hiện nay, ước tính gần 15% dân số thế giới bị bệnh viêm bàng quang kích thích, nữ giới bị nhiều hơn nam giới. Bởi vì do cấu tạo của bàng quang là cơ trơn và dưới sự chỉ huy của hệ thần kinh trung ương bằng hệ phó giao cảm nên bàng quang co bóp nhịp nhàng và khi nước tiểu đầy bàng quang sẽ có hưng phấn thần kinh, kích thích co bóp gây buồn đi tiểu. Đồng thời các cơ thắt (cơ vòng) ở cổ bàng quang có chức năng ngăn chặn rò rỉ nước tiểu. Vì vậy, mọi bất thường trong hai thành phần của chu kỳ tiểu tiện đều dẫn đến rối loạn chức năng bàng quang. Bàng quang của người bình thường (người trưởng thành) có thể chứa đựng được từ 300ml nước tiểu hoặc hơn thế nữa.

viem bang quang Viêm bàng quang kích thích thường gây tiểu tiện không tự chủ.

Nguyên nhân gây viêm bàng quang kích thích?

Khi bị bệnh viêm bàng quang kích thích sẽ có hiện tượng ứ đọng nước tiểu do mỗi lần đi tiểu không hết số lượng nước tiểu có trong bàng quang. Sự ứ đọng nước tiểu này, nếu vệ sinh cá nhân ở bộ phận tiết niệu - sinh dục ngoài không tốt (vệ sinh hàng ngày, vệ sinh trước và sau khi quan hệ tình dục…) hoặc bộ phận hệ tiết niệu, nhất là bàng quang bị mắc một số bệnh (sỏi, polyp, dị dạng bàng quang bẩm sinh…) hoặc do viêm nhiễm niệu đạo (lậu, Chlamydia, Mycoplassma, tạp khuẩn…) lan ngược dòng lên bàng quang gây viêm làm ảnh hưởng đến chức năng của bàng quang, gọi là viêm bàng quang kích thích… Hơn nữa, do ứ nước tiểu có thể dẫn đến mất khả năng co cơ bàng quang hoặc mất sự phối hợp giữa các cơ bàng quang và cơ thắt niệu đạo ngoài.

Như vậy, viêm bàng quang kích thích do hai nguyên nhân chủ yếu, đó là do rối loạn co bóp bởi hệ thống thần kinh chi phối bàng quang của thần kinh trung ương và do bàng quang bị viêm nhiễm.

Với người lớn tuổi, nhất là nữ giới, béo phì, người đã từng phẫu thuật ở vùng chậu, phẫu thuật tiền liệt tuyến hoặc do bệnh làm tổn thương thần kinh ngoại biên (tiểu đường lâu ngày), do tai biến mạch não, bệnh Parkinson rất dễ mắc chứng viêm bàng quang kích thích.

Triệu chứng như thế nào?

Viêm bàng quang kích thích thường khó kiểm soát việc tiểu tiện, có nghĩa là tiểu không tự chủ. Viêm bàng quang kích thích biểu hiện đặc trưng nhất là mót tiểu (buồn tiểu), tiểu gấp, tiểu són (muốn đi tiểu ngay tức khắc, khó kiềm chế được, nếu chậm trễ có thể tiểu són ra quần), nước tiểu nhỏ giọt, tiểu khó, thậm chí gây bí tiểu. Tiểu nhiều lần trong ngày, nhất là bị đi tiểu đêm làm ảnh hưởng đến giấc ngủ và chất lượng cuộc sống.

Một số cận lâm sàng nên được tiến hành để xác định viêm bàng quang kích thích là nội soi bàng quang để đánh giá tình trạng niêm mạc bàng quang xem có gì bất thường không.

Nuôi cấy, phân lập nước tiểu (xét nghiệm vi sinh y học) để xác định loại vi khuẩn gây bệnh, trên cơ sở đó tiến hành kỹ thuật kháng sinh đồ để đánh giá mức độ nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh giúp bác sĩ chọn kháng sinh thích hợp để điều trị. Nếu có điều kiện, nên tiến hành đo áp lực bên trong bàng quang để đánh giá tình trạng bàng quang kích thích.

Nguyên tắc điều trịÐể giảm sự kích thích của bàng quang nên dùng thuốc chống co thắt cơ trơn (do kết hợp kháng sinh theo kháng sinh đồ là tốt nhất, nếu không làm được kháng sinh đồ, cần dựa vào phác đồ điều trị của Bộ Y tế). Ngoài ra, cần tập luyện cơ vùng chậu (xoa bụng dưới, co duỗi chân, vận động cơ thể…). Nếu điều trị nội khoa không có kết quả, có thể tiêm một loại thuốc đặc biệt vào cơ bàng quang qua thủ thuật nội soi theo đường niệu đạo (thủ thuật phải được làm tại bệnh viện, đảm bảo vô khuẩn).Hàng ngày cần vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục - tiết niệu ngoài, tốt nhất là dùng nước đun sôi để nguội hoặc nước được lọc sạch. Với phụ nữ, cần dội nước từ trước ra sau để phòng nước bị nhiễm bẩn qua hậu môn lây nhiễm sang bộ phận sinh dục, tiết niệu vì lỗ tiểu của nữ giới gần với hậu môn.

BS. Việt Thanh

Nên ăn gì khi mắc bệnh thận?

Vì sao ăn thịt đỏ làm hại thận?

Một nghiên cứu của các nhà khoa học Singapore vừa được công bố hôm 14/7 trên tạp chí của Hiệp hội Thận học Hoa Kỳ, thuộc Viện y tế quốc gia Hoa Kỳ cho biết, ăn thịt đỏ có thể làm tăng nguy cơ suy thận. Tuy nhiên chỉ cần thay khẩu phần ăn một bữa trong ngày bằng các loại protein từ thịt động vật khác có thể giảm nguy cơ mắc bệnh thận.

Sở dĩ việc ăn quá nhiều protein động vật – có trong thịt đỏ- sẽ sản sinh ra nhiều thành phẩm độc hại như là hydrogen sulfide và ammonia khiến thận phải tăng cường làm việc để loại bỏ các chất độc này ra khỏi cơ thể. Lâu dài, thực phẩm protein dễ làm suy giảm chức năng thận, và dẫn đến tổn thương thận.

Thịt đỏ là loại thịt phổ biến được sử dụng trong mỗi gia đình, chủ yếu là thịt lợn. Các nhà khoa học Singapore cho rằng càng ăn nhiều thịt đỏ, nguy cơ mắc bệnh thận giai đoạn muộn càng cao. Giáo sư Woon Puay Koh, khoa lâm sàng tại Đại học Duke cho biết, phát hiện mới này cho thấy những bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính hoặc suy giảm chức năng thận vẫn có thể ăn các thực phẩm có protein nhưng nên chuyển sang các loại thực phẩm cung cấp đạm từ thực vật như đậu đỗ hay động vật như cá , thịt gia cầm, các loại động vật có vỏ.

Tiến sĩ William Mitch, giáo sư về thận học tại Đại học y Baylor ở Houston, cho biết nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng chế độ ăn với lượng protein thấp rất có lợi cho những người có tổn thương thận. Nhưng điều này không có nghĩa là ăn thức ăn nhiều protein sẽ làm ảnh hưởng đến thận.

Theo Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ, nước này có khoảng 20 triệu người mắc bệnh thận mạn tính. Từ năm 2000 đến 2008, số trường hợp từ 65 tuổi trở lên mắc mới đã tăng gấp đôi. Cho đến thời gian gần đây, mặc dù số mắc mới chững lại nhưng số người cần được chạy thận lại đang tăng lên. Một trong những nguyên nhân là do chế độ ăn của những người mắc bệnh thận. Năm ngoái, Tổ chức Y tế thế giới đã cảnh báo về mối liên quan giữa thịt đỏ và ung thư. Và một nghiên cứu tháng 11/2015 trên tạp chí Ung thư chỉ ra rằng thịt nấu chín ở nhiệt độ cao có ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư thận.

Trong nghiên cứu mới của các nhà nghiên cứu Singapore cho biết, qua theo dõi hơn 63.000 người lớn trong thời gian trung bình là 15,5 năm. Họ được phân loại tùy theo việc sử dụng lượng protein mỗi ngày, 97% những người ăn thịt đỏ thường là thịt lợn. Nhóm ăn nhiều thịt đỏ làm tăng 40% nguy cơ phát triển bệnh thận giai đoạn cuối so với nhóm cung cấp protein từ các loại thực phẩm khác. Việc thay thế khẩu phần ăn bằng thịt đỏ với protein từ thịt gia cầm, cá, tôm cua, trứng hay các sản phẩm từ sữa đậu nành và các loại đậu làm giảm nguy cơ suy thận. Riêng với thịt gia cầm, làm giảm tới 62% nguy cơ bệnh thận nặng thêm.

Bảo vệ thận không chỉ bằng chế độ ăn....

Khi một người mắc bệnh thận, tức là thận không còn khả năng làm việc như bình thường, duy trì chức năng lọc, thải độc tố ra khỏi cơ thể, bạn cần biết rằng chế độ ăn uống sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới tình trạng bệnh của bạn, nó có thể giúp bạn bảo vệ, không làm xấu đi tình trạng bệnh nhưng cũng có thể làm bệnh nặng thêm nếu ăn uống không giữ gìn. Thậm chí nếu ăn uống khoa học, người mắc bệnh thận còn có thể kiểm soát các bệnh khác như bệnh tiểu đường, cao huyết áp – những chứng bệnh làm bệnh thận nặng thêm.

Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo, với những đối tượng bệnh nhân đang chạy thận nhân tạo hay ghép thận, cần thực hiện chế độ ăn uống đặc biệt theo chỉ định của bác sĩ. Còn với những người mắc bệnh thận khác nên chú ý các điểm sau trong chế độ ăn của mình: Hạn chế ăn muối, đây là điều kiện đầu tiên mà mỗi bệnh nhân mắc bệnh thận cần tuân thủ. Protein cũng nên hạn chế, tốt nhất cung cấp protein cho cơ thể bằng cách ăn các loại thực phẩm như các loại cá, giảm các thức ăn có chứa nhiều chất béo bão hòa, cholesterol, các thực phẩm chiên, rán, chế biến sẵn. Nên ăn nhiều rau, hoa quả.

Các chuyên gia về thận – tiết niệu thuộc Hội Thận học quốc gia Mỹ đã đưa ra những khuyến cáo giúp người bệnh thận có thể cải thiện sức khỏe bao gồm:

- Xét nghiệm thường xuyên theo chỉ định của bác sĩ.

- Có chế độ ăn uống lành mạnh, cân bằng.

- Tăng cường hoạt động thể lực, kiểm soát cân nặng, cải thiện giấc ngủ, giúp tăng độ nhạy cảm với insulin, và giấc ngủ còn giúp sửa chữa và tái tạo các mô thận.

- Giảm cholesterol.

- Kiểm soát huyết áp.

- Kiểm soát đường huyết nếu bệnh nhân bị tiểu đường, bởi điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thận của bạn.

- Bỏ thuốc lá bởi thuốc lá là nguyên nhân gây ra các bệnh về mạch máu từ đó ảnh hưởng đến việc cung cấp máu cho thận. Ngoài ra người bệnh cũng cần bỏ rượu vì nó cũng là tác nhân gây ảnh hưởng đến thận.

Nguyễn Mai Hoàng

((theo WebMD, Kidney))

5 thứ cần tháo bỏ trước khi ngủ

Dưới đây là danh sách những thứ bạn cần tháo bỏ ra khỏi cơ thể trước khi đi ngủ:

Đồ trang sức

Nhiều người có thói quen đeo đồ trang sức như khuyên tai vàng, khuyên mũi, lắc tay. Nhưng phần lớn họ không tháo chúng ra trước khi đi ngủ. Những đồ trang sức nhỏ này có thể gây ra những thương tích bất ngờ như khuyên mũi và khuyên tai có thể bị tuột ra trong khi ngủ và rơi vào mũi hoặc tai và làm tổn thương những bộ phận này khi lấy ra. Chúng có thể cũng dính vào quần áo, chăn màn.

Kính áp tròng

Bạn không nên đeo kính áp tròng nhiều hơn 8 giờ cho mỗi lần và không nên đeo trong khi ngủ. Ống kính có thể trượt ra khỏi vị trí và mắc kẹt ở đâu đó trong hốc mắt.

Phụ kiện tóc

Ghim cài tóc, chun buộc tóc… cần được tháo ra trước khi ngủ. Bạn nên để đầu tóc thông thoáng trong khi ngủ. Nếu bạn buộc tóc đi ngủ, tóc dễ bị giảm độ đàn hồi và dễ gãy. Các phụ kiện khác như kẹp tóc nhỏ bằng kim loại có thể làm tổn thương da đầu.

Phấn trang điểm

Hãy tập thói quen loại bỏ những lớp phấn trang điểm dù nhẹ nhàng nhất khỏi da. Phấn trang điểm thường bịt kín lỗ chân lông, là một trong những nguyên nhân lớn nhất gây mụn trứng cá. Với phấn trang điểm mắt, nó có thể dễ dàng rơi vào mắt trong khi ngủ và gây tổn thương mắt. Do vậy cách tốt nhất là phải tẩy trang thật kỹ trước khi đi ngủ.

Quần áo/đồ lót chật

Các chuyên gia khuyên nên mặc quần áo rộng và sạch sẽ trong khi ngủ. Vào cuối ngày, quần áo của bạn bắt nhiều bụi bẩn, mồ hôi. Thay quần áo sạch sẽ và thoải mái giúp bạn ngủ ngon hơn. Ngoài ra, ngủ với quần áo/đồ lót chật có thể gây vết hằn trên da và gây sẹo vĩnh viễn.

BS Thu Vân

(Theo THS)